Đá cảnh Canxedon

da-canh-canxedon

Đá cảnh Canxedon (Chalcedony) là một dạng ẩn tinh của Silica, gồm rất nhiều hạt thạch anh và Moganit rất nhỏ mọc xen kẽ hay còn gọi là loại biến thể vi tinh của thạch anh.

Canxedon được sử dụng từ rất xa xưa bởi có màu sắc hấp dẫn, độ cứng khá lớn được dùng để trang trí và chạm khắc. Tên Canxedon có lẽ được bắt nguồn từ chữ Calxedon hoặc Chalchedon – một cảng biển cổ vùng Marmara. Ở đây, đầu tiên người ta khai thác Canxedon và dùng cho mục đích trang trí và đã từng là trung tâm buôn bán đá quý thời đó.

Canxedon là biểu tượng của chòm sao Nhân Mã trong cung hoàng đạo, năng lượng cảm xạ có tác dụng tới các luân xa tùy thuộc vào màu sắc của đá.
Canxedon có ánh sáp, đôi khi mờ và có nhiều màu khác nhau, phổ biến là trắng đến xám, xám xanh và nâu tới đen. Canxedon trong tự nhiên có rất nhiều loại khác nhau, và nó được xem là loại đá bán quý:

* Phân loại đá cảnh Canxedon:

– Agat: Là một dạng của canxedon với cấu tạo vân tròn đồng tâm.

– Carnelian: Là biến thể màu đỏ trong suốt của Canxedon, đôi khi chúng có màu đỏ nâu hoặc màu cam đậm. Nguyên tố tạo màu thường là Sắt (Fe3+), màu của carnelian có thể được xử lý nhiệt. Các khu vực khai thác chủ yếu là Brasil, Ấn Độ và Uruguay. Đa số Carnelian trên thị trường hiện nay là loại agat nhuộm màu sau đó được xử lý nhiệt. Loại Carnelian tự nhiên thường có màu đỏ với các đám mây của màu.

– Bloodstone (Đá máu): Là loại Canxedon có màu lục với các đốm và sọc dải màu đỏ. Màu lục thường là do các bao thể Clorit hoặc các bao thể thuộc nhóm Horblen. Màu đỏ được tạo ra do sắt. Các khu vực khai thác chủ yếu là Ấn Độ, Brasil, Trung Quốc,…

– Sard: Cũng là biến thể màu nâu đỏ tới nâu của Canxedon (nhưng so với Carnelian thì màu của Sard thường đậm hơn và nâu hơn). Loại tự nhiên cũng thường hiếm, đa số Sard trên thị trường hiện nay là do nhuộm màu.

– Chrysoprase: Là Canxedon màu lục (màu của Niken ôxít). Nguyên tố tạo màu thường là Niken (Ni). Ngoài cấu trúc ẩn tinh, đôi khi Chrysopas có cấu trục sợi. Khi bị đốt nóng màu của Chrysopas sẽ bị nhạt đi nhưng sau đó có thể tự hồi phục ở điều kiện nhiệt độ bình thường. Các khu vực khai thác chủ yếu là Australia, Brasil, Ấn Độ, Madagasca, Nam Phi,…Loại có sắc tối hơn được gọi là Prase. Tuy nhiên, Prase cũng thường được mô tả là thạch anh lục.

– Heliotrope: Là loại Canxedon màu lục có chứa các thể vùi ôxít sắt làm cho nó có màu đỏ máu nên còn được gọi là Bloodstone. Một loại khác tương tự Heliotrop có màu vàng được gọi là Plasma. Là loại Canxedon có màu lục.

– Agat: Là tên gọi loại Canxedon có cấu trúc màu dạng dải, sọc xanh rêu chứa các sợi màu xanh làm cho nó có màu rêu. Tên Agat có xuất xứ từ tên sông Archtes vùng Sicily (Italia). Trong cấu trúc của agat, đôi khi một số phần đã chuyển sang Opan. Ta thường quan sát được các vi tinh của thạch anh mọc vuông góc với cấu trúc dạng lớp của Cgat. Agat thường bán đục, tuy nhiên ở dạng các lớp mỏng ta có thể thấy chúng bán trong. Màu của Agat tự nhiên thường mờ, ranh giới giữa các màu thường không rõ ràng và người ta thường dùng phương pháp nhuộm màu để cho agat có màu sống động hơn. Bằng việc sử dụng các hoá chất nhất định cùng với xử lý nhiệt người ta có thể tạo ra các lớp màu theo ý muốn.
+ Agat dạng cành cây (Dendritic Agate): Là loại Canxedon có màu trắng hoặc trắng xám với các cấu trúc dạng cành cây, do sự tập trung của các nguyên tố Sắt hoặc Mangan có màu nâu (nếu là Sắt) hoặc màu đen (nếu là Mangan).
+ Agat dạng rêu (Moss Agate): Là tên gọi của loại Canxedon không màu, bán trong có chứa các bao thể Horblen hoặc Clorit màu lục và trông rất giống dạng rêu mờ.

– Onyx: Là loại Canxedon có hai lớp màu với phần nền có màu đen và lớp bên trên có màu trắng, hoặc là tên gọi loại Canxedon có màu đen. Khi màu của phần nền thay đổi thì chúng có các tên gọi khác nhau tương ứng, ví dụ Sard Onyx (phần nền có màu nâu và lớp trên có màu trắng); Cornelian Onyx (phần nền có màu đỏ và phần trên có màu trắng),…

– Jasper: Là tên gọi loại biến thể nằm giữa thạch anh và Canxedon (đôi khi chúng được xếp vào nhóm Canxedon, đôi khi chúng được xếp vào nhóm thạch anh), hoặc ta có thể gọi chúng là loại Canxedon có cấu trúc hạt. Trong thực tế, chúng thường phát triển cùng với Agat hoặc Opan.
– Mtorolit: Là Canxedon màu lục trong thành phần có chứa Crôm được tìm thấy ở Zimbabwe.

Giá trị của đá Canxedon: Tuỳ thuộc vào màu sắc và độ trong mà chúng có giá trị khác nhau. Loại có giá trị cao hơn cả là Chrysopas, Agat.

* Thành phần hóa học:

– Cấu trúc

Canxedon từng có thời được coi là trạng thái dạng sợi của thạch anh ẩn tinh. Tuy nhiên, gần đây người ta đã chứng minh rằng nó có chứa dạng đa hình đơn tà của thạch anh, gọi là Moganit. Tỷ lệ theo khối lượng của Moganit trong một mẫu vật Canxedon điển hình có thể dao động trong khoảng từ ít hơn 5% tới trên 20%. Sự tồn tại của Moganit từng có thời bị coi là đáng ngờ, nhưng hiện nay nó được Hiệp hội Khoáng vật học Quốc tế (IMA) chính thức công nhận

– Tính hòa tan:

 + Canxedon dễ hoà tan hơn thạch anh trong điều kiện nhiệt độ thấp, kể cả 2 khoáng vật trên đồng nhất về thành phần hóa học. Vì Canxedon có hạt rất mịn nên tỷ số bề mặt/thể tích là rất lớn. Tính tan cũng một phần nhờ sự có mặt của Moganit.

 + Canxedon Việt Nam thường được đánh bóng nguyên sơ hoặc chế tác thành các hình thù khác nhau. Ngày xưa Canxedon được làm giả bởi thuỷ tinh, không được tổng hợp trong công nghiệp.

* Lịch sử về đá Canxedon:

Vào thời kỳ đồ đồng Canxedon được sử dụng ở vùng Địa Trung Hải; chẳng hạn ở Crete thời Minos tại cung điện Knossos, các con dấu bằng Canxedon được tìm thấy có niên đại khoảng 1800 trước Công Nguyên. Người dân sống dọc theo con đường thương mai Trung Á sử dụng rất nhiều loại Canxedon như: Carnelian để khảm vào nhẫn. Tên gọi Chalcedony được lấy từ tên của thành phố cổ Chalkedon theo tiếng Phoenicia ở Tiểu Á, tiếng Anh thì gọi là Chalcedon, ngày nay là Kadıköy, một quận của Istanbul.

Người ta cho rằng, Canxedon màu xanh da trời có khả năng giải thoát người chủ khỏi cơn giận dữ và nỗi sầu muộn. Theo quan niệm cổ xưa, trong Canxedon chứa trong mình các túi khí và Ete, vì vậy có tác dụng làm an bình tâm lý tình cảm của con người. Khuyên đeo đồ trang sức bằng Canxedon đối với những người dễ bị kích động, ngoài ra nó còn giúp điều trị bệnh loạn thần kinh và chức năng trầm uất.

Theo các văn bản viết tay cổ, Canxedon cũng giống như agat là bùa hộ mệnh của những người đi biển. Canxedon cũng được coi là viên đá của tình yêu, nó thu hút trái tim người đàn ông về phía người phụ nữ. Canxedon mang trong nó tính nữ ban tặng cho cuộc sống và đồng thời cũng đầy mâu thuẫn.

Người Mông Cổ gọi những viên Canxedon màu xanh da trời được tìm thấy trong sa mạc Gobi là “đá niềm vui” và tin rằng chúng có khả năng xua đuổi nỗi buồn và tạo ra tâm trạng hứng khởi. Trong một văn bản cổ của Ấn Độ nói rằng loại đá này có ánh sáng của ý thức tinh khiết. Đồ trang sức bằng Canxedon màu xanh da trời có khả năng loại trừ nỗi sợ hãi, đem đến cho người chủ niềm tin vào sức mạnh của chính mình.

Đá Cảnh Nghệ Thuật